Tổng hợp các hệ thống phân chia giai đoạn ung thư biểu mô tế bào gan (Phần 4: Hệ thống GRETCH)
Hệ thống GRETCH (Groupe d'Etude et de Traitement du Carcinome Hépatocellulaire) được đề xuất bởi Nhóm nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (Pháp) vào năm 1999.
Hệ thống GRETCH (Groupe d'Etude et de Traitement du Carcinome Hépatocellulaire) được đề xuất bởi Nhóm nghiên cứu điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (Pháp) vào năm 1999. Hệ thống này bắt nguồn từ một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu gồm 761 bệnh nhân HCC điều trị tại 24 trung tâm y tế ở Pháp, Bỉ và Canada [1]. Trong nghiên cứu này, bệnh nhân được phân ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm cohort phát triển (training cohort) gồm 506 bệnh nhân và nhóm cohort xác nhận (validation cohort) gồm 255 bệnh nhân.
Từ phân tích hồi quy đa biến Cox, GRETCH xây dựng một hệ thống tiên lượng HCC kết hợp năm yếu tố: chỉ số Karnofsky, nồng độ bilirubin huyết thanh, phosphatase kiềm huyết thanh (ALP), nồng độ AFP huyết thanh và dấu hiệu huyết khối tĩnh mạch cửa trên siêu âm.
Dựa trên các yếu tố này, bệnh nhân được phân thành ba nhóm nguy cơ: (A): nguy cơ tử vong thấp, (B): nguy cơ tử vong trung bình, (C): nguy cơ tử vong cao. Kết quả sống còn toàn bộ của bệnh nhân ở ba nhóm có sự khác nhau rõ rệt. Tỷ lệ sống còn một năm ở nhóm A là 72% (cohort phát triển) và 79% (cohort xác nhận); ở nhóm B là 34% (cohort phát triển) và 31% (cohort xác nhận); ở nhóm C là 7% (cohort phát triển) và 4% (cohort xác nhận).

Ưu điểm của hệ thống này là nó dựa trên các yếu tố cơ bản, thường có sẵn trong chẩn đoán HCC và điểm số phân bổ cho các yếu tố tiên lượng đó đều được tính toán dựa trên các hệ số của hồi quy Cox.
Tuy nhiên, một nửa số bệnh nhân (401/761; 53%) trong nghiên cứu này không nhận được liệu pháp điều trị đặc hiệu nào, trong khi chỉ có 56 bệnh nhân (7,4%) được phẫu thuật cắt gan. Do đó, hệ thống GRETCH có thể không phù hợp để dự đoán sống còn của những bệnh nhân HCC được phẫu thuật cắt gan. Ngoài ra, sử dụng siêu âm để đánh giá tình trạng huyết khối tĩnh mạch cửa là có phần lạc hậu so với thời điểm hiện tại, vì những tiến bộ gần đây trong kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh.
……………………………………….
Tài liệu tham khảo
1. Chevret S, Trinchet JC, Mathieu D, Rached AA, Beaugrand M, Chastang C. A new prognostic classification for predicting survival in patients with hepatocellular carcinoma. Groupe d’Etude et de Traitement du Carcinome Hépatocellulaire. J Hepatol 1999; 31: 133-141.
Ý kiến bạn đọc